Sông Hồng – hồi ức của một nghĩa binh già
Chiếc tàu đen xuất hiện phía chân trời
thân cá mập lừ lừ tối sẫm
lá cờ lạ chập chờn khói sóng
miệng súng tròn hung dữ ngước lên
những bóng người cao lớn lênh khênh
găng tay trắng, ống nhòm dài lấp loáng
những mặt đỏ mũi khoằm râu rậm
gườm gườm trên tàu sắt
ầm ầm xả khói ven sông
bầy le le náo động bay tung
người đánh cá ngừng tay kéo vó
trẻ bắt cua quẳng giỏ
dân làng kinh ngạc nhìn ra
chưa ai hay cột khói đen kia
sẽ mang đến nước Nam
tám mươi năm nô lệ
chúng ta nhớ gì ngày ấy? nước Nam
trong tay lũ vua quan dốt nát
con rồng cũ ngoằn ngoèo trên áo thụng
những hoàng cung ẩm mốc mùi rêu
những ông quan võng lọng vẹo xiêu
ham chọi già và giỏi làm câu đối!
những đồng bãi bốn mùa nghèo đói
những chiếu chỉ chữ Nôm
(do hai chữ Tàu ghép lại)
lệnh bế quan toả cảng
lệnh cấm đạo Gia – tô
lệnh bắt giáo dân cho ngựa xé hổ vồ
lệnh chu di ba đời
ai dòng dõi Tây Sơn
ai chép thơ Chu – Thần
ai phạm huý
ngọn đèn con leo lắt đêm đông
soi gương mặt một người thức trắng:
Nguyễn Trường Tộ cô đơn đôi mắt sáng
viết tờ trần dâng vua
“muốn trị thuỷ Hồng Hà
không thể dùng đê quai tạm bợ
phải đào hồ to, khai thông đường xá
đến lúc cần trọng toán lý hơn văn
khai mỏ, đóng tàu, công nghệ mở mang
cho dân được muôn nhà no ấm
phải tỉnh táo nhìn xa nghĩ rộng
lái con thuyền khỏi vực vong nô…”
không lời nào lọt được tai vua
cả triều thần mải mê “lễ nhạc”
mặt khinh nhờn, dạ kinh hãi “Tây di”
giặc với những Gác-ni-ê và Giăng-đuy-pi
những óc lái buôn lọc lõi khôn ngoan
của công ty Đông Ấn Độ
những kẻ tìm vàng những tên vỡ nợ
những thiếu uý tóc mai cong
mơ làm Bô-na-pác
giặc Tây với súng đồng thuốc đạn
với vải hoa ngũ sắc
với tượng chúa với những lời đường mật
móng tay dài thèm khát
vươn lên châu thổ sông Hồng
Nhâm Ngọ tám trăm tám hai
Hà thành thất thủ
án sát, khâm sai khiếp sợ
nhưng thợ khảm Hàng Khay thợ dệt làng Chèm
những môn sinh của cụ cử Kim
cùng đội cận vệ quân
của đốc bộ quan Hoàng Diệu
xông ra “giao chiến ngang tàng”1
cờ ba sắc trên chòi canh đã cắm
lang Hạc Thọ Xương phản trắc
lén đưa quân giặc vào thành
Tôi là người lính hoả công
của tham tán quân Tôn Thất Thuyết
tôi là người lính già tóc bạc
đi theo vua Hàm Nghi
trong ngàn sân Quảng Trị xanh rì
nhìn nhà vua trẻ măng
ngồi ôm đầu im lặng
tôi quặn lòng nghẹn khóc
nước mất rồi chúng ta đi đâu?
tôi là người lính trận
sinh bên bờ sông Hồng
giặc Lang Sa trong thành cũ Thăng Long
nghênh ngang cướp bóc
lũ bồi Tây lũ chó săn xúm xít
tiệc rượu say mềm điện Kính Thiên
trong hoàng hôn một thế kỷ đang tàn
sao bốc cháy trên bầu trời hung dữ
tôi theo tướng Cờ đen
phục bên đường Giảng Võ
vung lá cờ móc câu tua tủa
ụp lên đầu Ngạc-nhe
tiếng hò reo trăm thuyền nhỏ lao đi
tôi ngang dọc khắp đầm lầy Bãi Sậy
giặc vây thuyền đốt bãi
tôi bắn trả giữa mịt mùng lửa khói
nghiến răng thà chết không hàng
xác tôi hoá thành than
thành lửa đóm lập loè đỉnh bãi
vượt đồn binh sông Cái
qua Yên Thế Nhã Nam
lên đồi dẻ rừng lim
tôi thổi ống xì đồng
trong nghĩa quân Đề Thám
quân vỡ, nhà tan, nước tận
xác cụ Phan Pháp nhồi cùng thuốc đạn
bắn xuống sông sâu, dân đấm ngực khóc gào
giặc băm nát thân tôi châm lửa tưới dầu
nhưng tôi nào chịu khuất
hồn tôi nơi rừng thẳm
canh khuya vang tiếng hổ gầm
cùng Đội Cấn Đội Cung quay súng cướp đồn
tôi trộn cà độc dược vào cơm
xé gan giặc trong “Hà thành đầu độc”
chúng đặt tôi lên lưỡi cày nung bỏng
“cũng thành nhân…” tôi ngẩng nhìn máy chém
đầu rơi mắt vẫn mở trừng
tôi lang thang khắp đồng bãi sông Hồng
ngày vùi gươm dưới cát
đêm trăng lạnh sương lạnh
tôi mài trên đá tảng lưỡi gươm xanh
đợi dịp vào thành
lấy lại nhà lại nước
nhìn đoàn tàu giặc
như rắn đen đi hút máu dân mình
ngực tôi ngàn vết thương
mặt tôi ngàn vết nhục
tôi là người lính già tóc bạc
tôi là tám mươi năm uất ức
tôi là con của sông Hồng sôi sục
đêm đêm trên cát
mài gươm.
- Câu trong Hà Thành chính khí ca [↩]