Về một người thương binh hỏng mắt
Giữa trưa ngồi một mình, ghế trắng, trời xanh, mây thật lành, hai tay vắt hai bên thành ghế. Anh một con đại bàng thèm vỗ cánh, một vệt nắng ngơ ngơ trên dòng chảy âm u vô tận. Anh bảo quê anh ở bên kia mùa hạ, tôi bắt gặp những rặng núi xanh lam và lau bạc. Anh khoe nhà anh ở ven đường, một con đường gập ghềnh, tôi nhớ tới những lối mòn mê hồn dắt ta lạc vào rừng trăng thăm thẳm.
– Vải đã chín hết rồi, nhưng mây trắng vẫn còn nhiều vô kể.
Tôi rụt rè tả lại cho anh, anh chỉ cười khe khẽ. Chiều năm một chín tám tư cũng là chiều của mây, mây trắng giăng ngập trời ải Bắc, mây tràn vào ý nghĩ của anh, cậu trinh sát trẻ măng lần đầu xuất trận. Chiều ấy anh vừa đi vừa nghĩ, cây chò chỉ trước nhà anh có muôn vàn chiếc lá, lá lấp lánh reo mỗi độ gặp người. Anh vừa đi vừa nghĩ, trong giấc mơ đêm qua người ấy đến tìm anh, môi cắn chỉ tóc dài buông trách cứ, một luồng sáng trong veo rọi xuống từ trời.
– Và dưới chân tôi bất thần ánh sáng hắt ngược lên.
Anh thấy mình vùn vụt về bên cây chò chỉ,
ngắt một chiếc lá xanh
Rồi ngủ
Đêm bắt đầu từ đấy thật dài.
Anh bảo hãy đo giúp anh xem bóng tối rộng ngần nào mà mấy chục năm đi mãi vẫn chưa qua, mấy chục năm anh cắt phương vị theo bài bản chẳng hiểu sao vẫn một bức tường đen sừng sững che trước mặt. Anh đã phải dằn lòng qua sợ hãi, qua cô đơn chán chường ngày được tin người ấy lên xe hoa đi mất.
Anh một con đại bàng thèm vỗ cánh.
– Quê tôi ở bên kia mùa hạ.
Anh vừa nói vừa cười buồn buồn, khuôn mặt nghiêng dần sang tĩnh lặng. Tôi ngó bốn bề thấy lay lay bao nhiêu ánh mắt.
Chúng ta nhìn thay người thương binh ấy, vào ban mai, vào trưa, vào sẩm tối. Đêm thì anh nhìn giúp chúng ta.