Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1929, quê quán xã Ninh Bình, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ông sinh trong một gia đình nho học, tham gia Việt Minh từ tháng 8 năm 1945, làm công tác thông tin tuyên truyền ở xã rồi lên tỉnh rồi Phó trưởng ty Thông tin Khánh Hòa. Sau 1954 ông hoạt động ở miền Nam, làm Phó ban Tuyên huấn Khánh Hòa, Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam, ủy viên tiểu ban văn nghệ Trung ương cục, trưởng ngành văn. Có thời gian làm Trưởng tiểu ban văn nghệ, ủy viên Ban Tuyên huấn khu Sài Gòn – Gia Định. Từ 1975, từng làm đại biểu Quốc hội khóa VI, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa II, III. Tổng biên tập báo Văn nghệ, Chủ tịch Hội Văn nghệ Phú khánh, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Hiện ông nghỉ hưu và sống ở Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Ngoài thơ Giang Nam còn sáng tác văn xuôi chủ yếu là truyện, truyện ngắn.
Các bút danh: Giang Nam, Châu Giang, Hà Trung, Lê Minh (sử dụng trên báo chí công khai xuất bản ở miền Nam từ 1955 đến 1960)
Tác phẩm
Thơ
Tháng Tám ngày mai (1962)
Quê hương (1962)
Người anh hùng Đồng Tháp (1969)
Vầng sáng phía chân trời (1978)
Hạnh phúc từ nay (1978)
Thành phố chưa dừng chân (1985)
Ánh chớp đêm giao thừa (trường ca-1998)
Truyện
Vở kịch cô giáo (1962)
Người giồng tre (1969)
Trên tuyến lửa (1984)
Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký-1987)
Các giải thưởng
Giải nhì về thơ tạp chí Văn nghệ năm 1961; bài Quê hương.
Giải thưởng văn học nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu (1960-1965) của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam về thơ: tập thơ Quê hương.
Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (2001)