Dưới giàn mồng tơi
[…]
Tàu súp lê một
Tàu súp lê ba
Con sông Cái Lớn… làng xa… khói mờ.
Trưa buồn nghẹn tiếng hít cô
Xót xa chim vịt bơ vơ gọi bầy.
*
Ới sông Cái Lớn
Ới ngọn bần gie
Lửa đom đóm chẳng lập lòe,
Bao giờ mới thấy lối về quê xưa.
Nhà thơ Kiên Giang tên thật là Trương Khương Trinh sinh tháng 2 năm 1928 tại làng Đông Thái, huyện An Biên, Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, là con thứ trong một gia đình gồm năm anh em. Ông lấy tên quê hương đặt thành bút hiệu Kiên Giang cho mình sau này.
Sinh ra trong một gia đình thuần nông miền sông nước, tuổi thơ của Kiên Giang trải qua những nhọc nhằn từ vùng U Minh Thượng. Đến năm 1943, ông theo học Trường tư thục Lê Bá Cang ở Sài Gòn. Năm 1944, ông đến ở tại Cần Thơ đi học Trường tư thục Nam Hưng, nơi ông có mối tình với cô bạn cùng lớp, là cảm hứng cho tác phẩm nổi tiếng Hoa trắng thôi cài trên áo tím.
Đến năm 1948, ông đi theo tiếng gọi non sông, rồi làm thơ ở báo Tiếng súng kháng địch thuộc Chiến khu 9, miền Tây U Minh. Năm 1955, ông lên Sài Gòn viết báo cho các tờ: Dân chủ mới, Tiếng chuông, Dân ta, Dân tiến… Ban đầu ông làm người sửa morasse cho báo Tiếng chuông, rồi dần dần ông viết bài và trở thành ký giả của báo với bút danh là Hà Huy Hà chuyên viết về phóng sự xã hội và kịch trường.
Viết báo, làm thơ không đủ sống, ông tiếp tục viết cải lương và vọng cổ để kiếm sống, và cũng từ năm 1955, nhà thơ – soạn giả Kiên Giang – Hà Huy Hà xuất hiện nhiều trên văn đàn Sài Gòn. Ông nổi tiếng cùng thời với Năm Châu, Hà Triều, Hoa Phượng, Viễn Châu, Quy Sắc… với tác phẩm đầu tay là Ngưu Lang Chức Nữ được viết theo hình thức “thi ca vũ nhạc”. Vở Người vợ không bao giờ cưới do ông viết đã giúp cho nghệ sĩ Thanh Nga đạt giải Thanh Tâm và trở thành một ngôi sao trong giới cải lương. Trước năm 1975, ông còn phụ trách ban thi văn Mây Tần trên Đài Phát thanh Sài Gòn, làm ký giả kịch trường cho nhiều tờ báo lớn ở Sài Gòn. Ông từng tham gia phong trào ký giả ăn mày và dẫn đầu đoàn biểu tình chống lại những quy chế khắt khe của chính quyền cũ áp đặt lên giới báo chí. Vì hành động này, Kiên Giang đã bị đi tù.
Sau năm 1975, soạn giả Kiên Giang – Hà Huy Hà được cử làm Phó đoàn cải lương Thanh Minh – Thanh Nga đồng thời làm việc tại phòng nghệ thuật sân khấu, là Ủy viên Ban chấp hành Hội Sân khấu thành phố Hồ Chí Minh qua ba nhiệm kỳ. Ông từng sống cô độc trong nhiều năm tại Hội Ái hữu Nghệ sĩ Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh nằm trên đường Cô Bắc.
Năm 2013 do tuổi già, ông quay về An Giang sống cùng gia đình người con gái.
Ngày 28 tháng 10 năm 2014 Kiên Giang bị đột quỵ khi đang ở Sài Gòn để giúp đỡ một gia đình ở An Giang gặp khó khăn. Ông được đưa vào cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Nguyễn Tri Phương với chẩn đoán xuất huyết não. Ông mất vào lúc 6 giờ 30 sáng ngày 31 tháng 10, hưởng thọ 87 tuổi. Ông được an táng tại Nghĩa trang Bình Dương, xã Chánh Phú Hòa, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
Tác phẩm chính:
Thơ: Hoa trắng thôi cài trên áo tím (1962), Lúa sạ miền Nam (1970), Quê hương thơ ấu.
Cải lương: Người đẹp bán tơ (1956), Con đò Thủ Thiêm (1957), Người vợ không bao giờ cưới (1958 – với Phúc – Nguyên), Ngưu Lang Chức Nữ, Áo cưới trước cổng chùa, Phấn lá men rừng, Từ trường học đến trường làng, Dòng nước ngược, Chia đều hạnh phúc, Trương Chi Mỵ Nương, Mây chiều xuyên nguyệt thôn, Sương phủ nửa chừng xuân, Chén cơm sông núi, Hồi trống trường làng, Lưu Bình – Dương Lễ.
Nhạc: Trái gùi Bến Cát, Đội gạo đường xa, Tim đá mạ vàng, Ngồi trâu thổi sáo, Ánh đèn soi ếch, Người đẹp bán tơ, Hương cao quê ngoại, Trái tim cò trắng, Vắt sữa nai nuôi mẹ, Hương sắc gái Cà Mau, Lập quán kén chồng, Ni cô và lão ăn mày, Khói lò gạch, Cô gái miền Tây…
[…]
Tàu súp lê một
Tàu súp lê ba
Con sông Cái Lớn… làng xa… khói mờ.
Trưa buồn nghẹn tiếng hít cô
Xót xa chim vịt bơ vơ gọi bầy.
*
Ới sông Cái Lớn
Ới ngọn bần gie
Lửa đom đóm chẳng lập lòe,
Bao giờ mới thấy lối về quê xưa.
[…]
Tiếng trống cơm hòa nhạc ngũ âm,
Trong ngày Đưa Nước, hội trăng rằm,
Dù Kê hát bội vui chùa miễu,
Sống thái bình, quên cả tháng năm.
Hơi nước còn thơm mùi bánh ống,
Còn thơm tà áo sắc thiên thanh,
Cô em bán bánh sao hiền quá,
Lóng lánh mắt huyền in bóng anh.
[…]
[…]
Tiếng chày nằng nặng trên không gian
Cùng tiếng gà trưa gáy trễ tràng
Tiếng tập đánh vần cùng nhịp thước
Buồn như nước chảy giữa trường giang
Ai quên cho được mái tranh nâu
Luống đất bờ ao với nhịp cầu
Mồ mả ông bà nằm giữ đất
Lòng người lòng đất cảm thương nhau
[…]
[…]
Bây giờ mẹ quá tám mươi rồi
Xuồng tản cư ghé mấy bến đời
Khói đốt đồng mờ che xóm cũ
Ngày xanh của mẹ sớm tàn phai
Tóc trắng bông gòn màu tuyết phủ
Tuổi già như bóng xế hoàng hôn
Máu khô, sữa cạn, chân mò mẫm
Vẫn sống hẩm hiu kiếp mỏi mòn
[…]
[…]
Yêu làm sao, trời đất, nước miền Nam
Vẹt màn rêu trên bia đá núi Sam
Ghi công đức Thoại Ngọc Hầu thuở trước
Người xưa bảo: “Đây là vùng đất phước
Đất oai hùng toàn nhân kiệt địa linh”
Khi trời xanh trở xám lửa đao binh
Lúa lặn xuống tránh mùi tanh thuốc súng
Thân lúa mềm nhưng dẻo mềm chân đứng
Đứng cùng người cùng lịch sử miền Nam
Dù đớn đau bầm dập chẳng rên than
Khi gục xuống là hẹn hò quật khởi
Cò trắng ngàn năm bay chẳng mỏi
Lưng trâu, sáo đậu ngóng mây chiều
Bếp un dệt khói đan mùng lưới
Giấc ngủ ru theo tiếng sáo diều
Nước càng cao lúa càng cao
Lúa lên theo nước vẫy chào áng mây
Mồ hôi chảy xuống đất lầy
Cho dài lá lúa cho đầy chén cơm
[…]
[…]
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Không còn đứng nép ở lầu chuông
Những khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa thánh đường
“Lạy Chúa con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ở trên cao
Trong lòng còn giữ màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !”