Louis Aragon, tên thật Louis Andrieux, là nhà thơ, nhà văn, chính trị gia nổi tiếng người Pháp. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, viện sĩ Viện hàn lâm Goncourt.
Ông sinh ngày 3 tháng 10 năm 1897 tại Paris, học Đại học Y ở Paris. Sau này, Aragon chọn bút danh cho mình lấy tên của một vùng đất lịch sử ở Tây Ban Nha. Thời trẻ Aragon gần gũi với các nhóm Dada và Surrealism. Năm 1927 ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tích cực tham gia các hoạt động báo chí. Năm 1932 cùng đoàn các nhà văn Quốc tế đến thăm vùng Ural của Liên Xô. Ấn tượng của chuyến đi này được Aragon thể hiện trong tập thơ Hourra l’Oural (Hoan hô Ural, 1934).
Vợ của Aragon là Elsa Triolet, một phụ nữ Liên Xô gốc Do Thái. Elsa Triolet là chị gái của Lilya Brich, vợ của nhà thơ Nga nổi tiếng Vladimir Mayakovsky, bản thân Elsa Triolet cũng là một nhà văn nổi tiếng.
Thời kỳ Thế chiến II, Aragon tham gia phong trào Kháng chiến, là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào này. Các tập thơ Le Crève-Cœur (Dao trong tim, 1941), Les Yeux d’Elsa (Đôi mắt Elsa, 1942) thể hiện lòng yêu nước và sự quay về với những đề tài tình yêu cổ điển. Ngoài thơ ca, Aragon còn là một nhà văn nổi tiếng với nhiều tác phẩm có giá trị về những vấn đề của văn học hiện đại.
Ông mất ở Paris ngày 24 tháng 12 năm 1982.
Các thi phẩm chính:
Le Musée Grévin, xuất bản với bút danh François la Colère
La rose et le réséda
Feu de joie, 1919
Le Mouvement perpétuel, 1926
La Grande Gaîté, 1929
Persécuté persécuteur, 1930—1931
Hourra l’Oural, 1934
Le Crève-Cœur, 1941
Cantique à Elsa, 1942
Les Yeux d’Elsa, 1942
Brocéliande, 1942
Le Musée Grevin, 1943
La Diane Française, 1945
En étrange pays dans mon pays lui-même, 1945
Le Nouveau Crève-Cœur, 1948
Le Roman inachevé, 1956
Elsa, 1959
Les Poètes, 1960
Le Fou d’Elsa, 1963
Il ne m’est Paris que d’Elsa, 1964
Les Chambres, poème du temps qui ne passe pas, 1969