Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh, sinh ngày 5 tháng 10 năm 1930 tại Huế, là con gái quan Tổng Đốc Võ Chuẩn. Ông nội bà là Võ Liêm, thượng thư bộ Lễ của triều đình Huế.
Năm 1945 bà tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp một thời gian rồi trở về Huế tiếp tục đi học.
Năm 1964 bà đi Pháp học chuyên ngành báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Đông Phương La Sorbonne, Paris đến năm 1967 thì ra trường và làm việc tại đài truyền hình Pháp ORTF.
Bà từng là phóng viên chiến trường tại Algérie và Việt Nam. Năm 1972 bà được cử theo dõi và tường thuật cuộc hòa đàm Paris. Năm 1973 Bà sang Trung Đông theo dõi cuộc chiến Do Thái, một thời gian sau bà trở về Việt Nam giảng dạy khoa báo chí tại Viện Đại Học Vạn Hạnh năm 1974-1975.
Sau biến cố 1975 bà trở lại Paris cho xuất bản tạp chí Hồn Việt Nam và trở lại cộng tác với đài phát thanh ORTF với chương trình Việt ngữ để tranh đấu cho những nhà cầm bút, những văn nghệ sĩ Việt Nam bị chính quyền cầm tù. Bà đứng ra thành lập Hội Văn bút Việt Nam hải ngoại và vận động để được công nhân hội viên Hội Văn bút Quốc tế tại Rio de Janeiro vào năm 1979.
Từ năm 1982 bà định cư tại quận Cam, California, Hoa Kỳ. Bà mất tại Hòa Kỳ vào ngày 9/6/2017.
Bà còn có các bút hiệu là Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử.
Tác phẩm đã xuẩt bản:
Lang thang (1960)
Thư sinh (1962)
Bơ vơ (1964)
Hắn (1964)
Mơ (1964)
Thiên nga (1965)
Hai gốc cây (1966)
Sám hối (1967)
Tử địa (1973)
Trà thất (1974)
Bài thơ cho ai (1974)
Dòng mưa trích lịch (Nhà xuất bản Thanh Long, Bruxelles, 1976)
Bài thơ cho quê hương (Nhà xuất bản Nguyễn Quang, Paris 1976)
This side, the other side (Nhà xuất bản Occidental Press, Hoa Kỳ, 1980)
Bên ni bên tê (truyện dài, Nhà xuất bản Nguyễn Quang, Hoa Kỳ, 1985)
Niệm thư 1 (tái bản 1987)
Biển nghiệp (Nhà xuất bản Nguyễn Quang, Hoa Kỳ, 1990)