Khúc hát tương tư
[…]
Xa em, gió ít, lạnh nhiều
Lửa khuya tàn chậm, mưa chiều đổ nhanh.
Bóng đơn đi giữa kinh thành
Nhìn duyên thiên hạ, nghe tình người ta.
Đêm dài, chợp cánh thiên nga
Vo chăn mấy bận vẫn là chiêm bao!
Trần Huyền Trân tên thật là Trần Đình Kim, sinh ngày 13 tháng 9 năm 1913 tại Hà Nội. Ông quê ở huyện Ân Thi, Hưng Yên, tham gia phong trào Thơ mới. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Việt Minh, làm việc ở đoàn kịch Tháng Tám. Sau năm 1954, Trần Huyền Trân chuyển sang hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực sân khấu. Cùng với một số người bạn như Lộng Chương, Lưu Quang Thuận, Hà Văn Cầu, Nguyễn Đình Hàm… ông đã bỏ tiền túi ra thành lập nhóm chèo Cổ Phong để có nơi bảo lưu những giá trị nghệ thuật của dân tộc và đào tạo nghề cho các lớp diễn viên. Ông là người đã dày công sưu tầm, chỉnh lý những tích chèo cổ, những trích đoạn đã trở thành mẫu mực của nghệ thuật chèo (như Xúy Vân giả dại, Quan Âm Thị Kính…). Ông mất ngày 22 tháng 4 năm 1989 tại Hà Nội.
Làm thơ từ năm 20 tuổi, Trần Huyền Trân đã để lại một di sản văn học, nghệ thuật khá đồ sộ, gồm 13 vở kịch – kịch thơ, 17 vở chèo, như: Lên đường, Hoàng Văn Thụ, Đêm trong tù, Lam Sơn tụ nghĩa, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Tiếng hát bên nôi, Tạ Thị Kiều, Lửa Hà Nội, Lý Thường Kiệt… Bên cạnh đó, ông còn là tác giả của khối lượng lớn những tác phẩm văn xuôi, tiểu thuyết: Tấm lòng người kỹ nữ, Người ngàn thu cũ, Sau ánh sáng, Lẽ sống… và hơn 100 bài thơ viết từ trước cách mạng tháng Tám. Từ những đóng góp trên, Trần Huyền Trân được truy tặng Giải Thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Về nguồn gốc của bút danh Trần Huyền Trân, theo Tô Hoài (Phê bình – bình luận văn học, Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh): Thời gian sống ở phố Khâm Thiên, ông có gặp gỡ một người con gái làm việc cho quán hát cô đầu tên gọi Trần Nguyệt Hiền, do có thai nên bị đuổi việc. Thương cảm trước hoàn cảnh éo le của cô gái ông đã đứng ra cưu mang, lo cho cô sinh nở và khi cô sinh con gái ông đã đặt tên là Trần Huyền Trân (ý nói hai người họ Trần vì “Trân” thêm dấu huyền thành “Trần”). Tên con đã trở thành tên thơ của ông từ đó.
[…]
Xa em, gió ít, lạnh nhiều
Lửa khuya tàn chậm, mưa chiều đổ nhanh.
Bóng đơn đi giữa kinh thành
Nhìn duyên thiên hạ, nghe tình người ta.
Đêm dài, chợp cánh thiên nga
Vo chăn mấy bận vẫn là chiêm bao!
[…]
Người là một kiếp thi nhân
Tóc xanh đã nhuộm mấy lần biển dâu
Nhà người bên một dòng sâu
Xác xơ khóm trúc hàng cau lạnh lùng
Hồn thơ về lánh bụi hồng
Quyển vàng tóc bạc nằm chung một lều
Có đàn con trẻ leo nheo
Có dăm món nợ eo sèo bên tai
[…]
[…]
Kìa bóng cau già đứng xác xơ
Ở đây dấu vết thuở ngày xưa
Nằm ôm gốc gạo lều nghiêng mái
Cành liếp che sương lúc đợi chờ
Lòng sầu tráng sĩ rối như mây
Vội vội gò cương đổ bóng gầy
Vội vội xô phên kêu vội vội
– Mẹ ơi! Con đã trở về đây!
Nhưng lời kêu gọi để ai nghe
Mây xế trời chênh gió nặng nề
Trăng lạnh dòm song màn rủ lạnh
Lều hoang thôi chẳng đáp ai về
[…]
Đâu đó lâu đài bỏ nhện giăng
Mà đây phòng xép hẹp như săng
Giường ken chiếu nối xoay ngang dọc
Xương gối vào xương chẳng đủ nằm
Cửa nhỏ trông giời với chấn song
Một khuông chật chội mấy phương lòng
Tường vôi gạch lở loang màu máu
Nung nấu thêm sầu mộng núi sông
[…]
[…]
Kinh thành ríu rít nở nghìn xuân
Nghìn cánh song dâng mộng đỏ dần
Trong bụi nghìn màu theo gió loạn
Chân mình vẫn lạc dấu nghìn chân.
Đứng lặng trông vời xứ nhớ thương
Nghe mây vò võ rỏ thành sương
Chao ôi! Hồn nặng sầu trong xác
Sầu đổ cô đơn bóng xuống đường.
[…]
Cụ hâm rượu nữa đi thôi
Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy vào đau lòng này
Tôi say?
Thưa, trẻ chưa đầy
Cái đau nhân thế thì say nỗi gì?
[…]
Mưa bay trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa…
Có người về khép song thưa
Để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng.
Gió ngớt khua lau dưới gậm cầu
Đường về xóm lạnh bước thôi mau
Ngõ hoang đã nở dăm màu bướm
Là lúc đôi mùa đưa tiễn nhau
Ấy lúc hồn hoa trở gót về
Thả đàn chim mộng xuống thâm khê
Tôi nghe xa lắm làn mây trắng
Rời bóng kinh thành lững thững đi.
[…]
Thôi thế anh về – tôi đi đây
Cây nào có gió không thèm lay
Chim nào có cánh không thèm bay
Lòng nào có máu không thèm say
[…]
[…]
Nhớ lại mùa mưa những thuở nào
Rượu rồi nâng cổ áo lên cao
Dăm ba mồi thuốc đi chung bóng
Lòng chép cho lòng bao chiêm bao
Đây mấy vai kề bên giáng tiên,
Say còn ngửa cổ rót men duyên
Kia dăm cồn tóc mây thu đậu
Khói thuốc đưa lời như lũ điên
[…]