Khuôn mặt em
Giữa những ngày dài dằng dặc
Chỉ còn khuôn mặt em
Sáng trong và bình lặng
Dù hai đứa chúng ta
Chưa lúc nào sung sướng
Những ngày đau khổ ấy
Khuôn mặt em
Như mảnh trăng những đêm rừng cháy
[…]
Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray (nay là phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền), thành phố Hải Phòng, nhưng quê gốc ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Văn Cao là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc Việt Nam, đồng thời là một họa sĩ, thi sĩ tài hoa.
Ông xuất thân trong một gia đình viên chức. Cha của Văn Cao vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Phòng.
Thuở nhỏ, Văn Cao hoc ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Joseph, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc.
Cuối những năm 1930, tân nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Phòng khi đó tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong như Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý… Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận… và bắt đầu sáng tác Tình Ca Quê Hương.
Năm 1942, nghe theo lời khuyên của Phạm Duy, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant – nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền – và theo học dự thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Văn Cao còn làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy.
Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: Cô gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm. Đặc biệt tác phẩm Cuộc khiêu vũ những người tự tử (Le Bal aux suicidés) được đánh giá cao và gây chấn động dư luận. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của Văn Cao không bán được. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè, Văn Cao thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên các đường phố Hà Nội, Hải Phòng.
Cuối năm 1944, Văn Cao gặp lại Vũ Quý, một Việt Minh mà ông đã quen biết trước đó. Vũ Quý thuyết phục ông tham gia Việt Minh, với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc. Văn Cao đã sáng tác ca khúc đó trong nhiều ngày tại căn gác số 171 phố Mongrant và đặt tên cho tác phẩm là Tiến quân ca. Tiến quân ca được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập tháng 11 năm 1944. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt Tiến quân ca làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Văn Cao làm phóng viên và trình bày cho báo Lao Động.
Năm 1946, Văn Cao được cử cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính thức được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Ủy viên Chấp hành, Văn Cao hoạt động ở liên khu III, phụ trách tổ điều tra của công an Liên khu và viết báo Độc Lập.
Đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc biệt của công an Liên khu 10 ở biên giới phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm vụ kết nghĩa với vua Mèo để lập ra một phòng tuyến bảo mật chống sự tràn sang của quân Trung Hoa Quốc dân Đảng khi thua trận.
Văn Cao kết hôn cùng bà Nghiêm Thúy Băng năm 1947, có với nhau 5 người con, 3 trai đầu và 2 gái cuối.
Năm 1952, Văn Cao sang Liên Xô nghiên cứu âm nhạc. Theo Hoàng Minh Chính thì chuyến đi này làm Văn Cao “thất vọng về chủ nghĩa cộng sản”.
Sau hiệp định Genève 1954, Văn Cao hồi cư về Hà Nội, làm việc cho Đài Phát thanh, nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955, ông cầm bút trở lại, viết bài cho đặc san Giai phẩm. Tháng 2 năm 1956, bài thơ Anh có nghe thấy không được đăng trên Giai phẩm mùa Xuân.
Như những nghệ sĩ khác của nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm, tháng 7 năm 1958, Văn Cao phải đi học tập chính trị. Tên tuổi của Văn Cao hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội. Những năm sau đó, Văn Cao tiếp tục bằng nhiều công việc, như viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn kịch, vẽ quảng cáo các báo, vẽ nhãn diêm… Các tác phẩm của ông, cũng như các ca khúc lãng mạn tiền chiến khác, không được trình diễn ở miền Bắc, trừ bài quốc ca. Giai đoạn này, Văn Cao hầu như không còn sáng tác.
Đến cuối năm 1975, Văn Cao viết Mùa xuân đầu tiên, nhưng ca khúc bị phê bình là không đi đúng đường lối của Đảng, không phục vụ cho Cách Mạng, vì thế bản nhạc mới phát hành đã bị tịch thu.
Năm 1981, Việt Nam phát động phong trào cả nước thi sáng tác quốc ca nhưng sau đó không công bố kết quả, cuộc thi cũng không được nhắc lại. Bài Tiến quân ca vẫn là quốc ca của Việt Nam. Cho đến cuối thập niên 1980, nhờ chính sách Đổi mới của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, các tác phẩm của Văn Cao cùng những nhạc sĩ tiền chiến khác được biểu diễn trở lại.
Năm 1989, tạp chí National Geographic đã đăng một bức ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư bên chiếc đàn dương cầm của ông. Chính tấm hình này sau đó đã tạo cảm hứng để nhà soạn nhạc đương đại người Mỹ Robert Ashley sáng tác nên bản solo cho piano mang tên Van Cao’s Meditation vào năm 1992.
Ngày 10 tháng 7 năm 1995, sau một thời gian mắc bệnh ung thư phổi, Văn Cao mất tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.
Thi phẩm chính:
Giữa những ngày dài dằng dặc
Chỉ còn khuôn mặt em
Sáng trong và bình lặng
Dù hai đứa chúng ta
Chưa lúc nào sung sướng
Những ngày đau khổ ấy
Khuôn mặt em
Như mảnh trăng những đêm rừng cháy
[…]
[…]
Đời em phải lúc
Rợn âm ba dây nhỏ máu loan hoàng
Tình đàn chung thủy
Lời đàn rồi an ủi lúc chàng đau
Tuy phận đàn mỏng mảnh cũng đừng sầu
Ai giữ nổi được chiếc bình phỉ thúy?
Khách chơi đàn lụy
Kẻ dâng đàn tri kỉ một ngày vui
Rồi mai sau thế kỉ khác ngậm ngùi
Tấu nhạc điệu của chàng cung số mệnh
[…]
[…]
Chuyện thê nhi? – Bẻ trâm vàng đi!
Khăn lụa người cho? – Lau máu đi!
Ảnh tặng? – Giấu vào trong ngực áo!
Trở về? – Không! Chỉ có ra đi.
[…]
[…]
Người tụ về nép góc hào bình thản
Hà Nội ca và chiến đấu quanh ta
Xưa đây lối xóm cầm ca
Bốn mùa ngả nghiêng trụy lạc
Khăn lụa che ngang mày thét nhạc
Gót chân xanh khép giọng Tì bà
Em gái Ngã Tư Sở
Anh người thợ Nam Đồng
(Đêm sênh ca khốn khổ
Đập tan đàn khi nhạc mới mênh mông)
Xác anh vùi lửa đạn
Xác em vùi bên anh
Khói súng mờ bay nhạt cả xóm xanh
Lửa bừng cháy lên rực phía đô thành
[…]
[…]
Tôi giờ đây liếm môi nóng bỏng
Nhìn ra biển bao la
Lòng hãy còn nhiều khát vọng
Còn rất nhiều khát vọng
Biến thành người khổng lồ kêu khát suốt ngày đêm
Suốt ngày đêm kêu khát
Những ngọn sóng trên cát khô sủi bọt
Ngày đêm
Mãi mãi
Dưới chân tôi
Nước ngọt của ngàn sông
Bao giờ đổ đầy lòng biển.
[…]
Tôi đi trên phố
Bỗng nhiên mọi người nhìn tôi
Một ai đó kêu lên: thằng ăn cắp
Tôi chạy Tôi chạy
Tại sao Tôi chạy? Tôi không hiểu tôi
Cả phố đuổi theo tôi xe cộ đuổi theo tôi
Tôi chạy bạt mạng
Gần hết đời
Tới chỗ chỉ còn gục xuống
Tỉnh dậy mồ hôi chảy
Tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội
[…]
[…]
Những cánh cửa đều khóa chặt
Trong gian phòng trong suốt thủy tinh
Em ở đây với anh
Cho bớt lạnh sang mùa xuân náo nức
Thịt da em cho anh sưởi
Hơi ẩm mình con chim khuyên
Trong lòng bàn tay
Run rẩy
Giữa hai cành non
Nghe nhựa mùa xuân
Những nụ hồng mới nở
Và mật vừa thơm và ong đã tới
Chúng ta đi vào bí mật của mùa xuân
Ngày đầu tiên của em trên biển.
Tôi thả con thuyền giấy
con thuyền giấy trôi
tôi thả một bông hoa
bông hoa trôi
tôi thả một chiếc lá
chiếc lá trôi
tôi ôm em trong tay
em vẫn trôi
16.1.1988
Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỉ niệm trong tôi
Rơi
như tiếng sỏi
Trong lòng giếng cạn
[…]
Một tiếng động khóa
Xin mời vào
Cánh cửa mở ra thật rộng
Chỉ thấy
Một chiếc cầu thang nhà trên gác
Và ánh sáng
Không động đậy
Một giọt mồ hôi
Lăn trên trán